Pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay bao gồm các đạo luật sau:

- Luật Hợp tác xã 2003: Quy định về hợp tác xã

- Luật Doanh nghiệp 2005: quy định về Doanh nghiệp tư nhân; Công ty trách nhiệm hữu hạn (loại một thành viên và loại từ 2 đến 50 thành viên); Công ty cổ phần ; Công ty hợp danh (bao gồm công ty hợp danh thường và công ty hợp danh hữu hạn).

Bên cạnh đó còn có các Luật chuyên ngành quy định về ngành kinh doanh, trong đó có những quy định về doanh nghiệp khi kinh doanh thuộc các ngành này. Một số điểm khác nhau cơ bản giữa luật về doanh nghiệp và luật chuyên ngành là:

- Trình tự thủ tục và điều kiện thành lập doanh nghiệp do Luật chuyên ngành có quy định khác so với luật doanh nghiệp.

- Luật chuyên ngành thường khống chế đối tượng được quyền thành lập doanh nghiệp và loại hình doanh nghiệp được phép kinh doanh các ngành nghề đó.

- Cơ cấu tổ chức, công cụ quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp chuyên ngành cũng khác hơn so với quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp.

Tuy nhiên, về cơ bản luật chuyên ngành không quy định cơ cấu tổ chức quản lý và kiểm soát của doanh nghiệp, không quy định việc tổ chức lại doanh nghiệp. Các nội dung này được điều chỉnh bởi các luật về doanh nghiệp. Nội dung của luật chuyên ngành thường quy định nghiệp vụ hoạt động kinh doanh ngành nghề đó.