“Ðe dọa... là hành vi cố ý của một bên”. Thoạt trông, điều đó có nghĩa rằng, cũng như việc lừa dối, việc đe dọa phải xuất phát từ bên kết ước: không có đe dọa xuất phát từ người thứ ba. Song, có thể tin rằng “một bên” và “bên kia”, nói trong định nghĩa về đe dọa tại Ðiều 142 khoản 1, là các bên trong quan hệ đe dọa chứ không phải các bên trong giao dịch dân sự xác lập dưới sự đe dọa. Với cách hiểu đó, thì đe dọa có thể là hành vi của bất kỳ người nào, không nhất thiết là hành vi của người kết ước với người bị đe dọa. Phải chấp nhận giải pháp vừa nêu, nếu không người bị đe dọa sẽ không được bảo vệ, một khi sự đe dọa xuất phát từ một người thứ ba mà không phải là người kết ước. Ví dụ: người chồng vay nợ, Ngân hàng yêu cầu có người bảo lãnh; người chồng buộc người vợ đứng ra bảo lãnh cho mình, người vợ không muốn nhưng không dám phản đối, do bị đe dọa; hợp đồng bảo lãnh được giao kết giữa người vợ và Ngân hàng trong đó, người bảo lãnh đã giao kết dưới sự bảo lãnh mà người bảo lãnh không biết. Người bảo lãnh trong ví dụ đó phải có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

click liên hệ luật sư.

lienhe