Tư vấn luật dân sự \| luật sư dân sự
- Chi tiết
- Chuyên mục: Luật dân sự
- Được đăng: 09 Tháng 4 2012
- Lượt xem: 1503
a) Vật bị đánh rơi, bị bỏ quên
“Người nhặt hoặc phát hiện được vật do người khác đánh rơi hoặc bỏ quên mà biết rõ địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên, thì phải thông báo hoặc trả lại vật cho người đó.” (BLDS Điều 247 khoản 2, Điều 249 khoản 1). Trường hợp không biết được địa chỉ của người đánh rơi hoặc bỏ quên, BLDS quy định rằng “người nhặt hoặc phát hiện phải thông báo cho UBND xã, phường, thị trấn hoặc Công an cơ sở nơi gần nhất để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. Sau một năm kể từ ngày thông báo công khai về vật nhặt được, phát hiện được mà không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu không đến nhận, thì vật đó thuộc sở hữu của người nhặt được, phát hiện được” (Điều 247 khoản 2 đoạn 3, Điều 249 khoản 2); “nếu vật có giá trị lớn, thì sau khi trừ chi phí bảo quản người nhặt được hưởng 50% giá trị của vật và phần còn lại thuộc về Nhà nước” (Điều 248 BLDS). “Trong trường hợp vật bị đánh rơi, bị bỏ quên là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa mà sau một năm, kể từ ngày thông báo công khai, không xác định được ai là chủ sở hữu hoặc không có người đến nhận, thì vật đó thuộc Nhà nước và người nhặt được, phát hiện được vật đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật” (Điều 249 khoản 3).
b) Gia súc, gia cầm bị thất lạc - Việc xác lập quyền sở hữu đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc được dự liệu tại các Điều 250 và 251 BLDS. Nếu bắt được gia súc bị thất lạc, thì người bắt được phải thông báo cho UBND xã, phường, thị trấn nơi mình cư trú để thông báo công khai cho chủ sở hữu biết mà nhận lại. (Điều 250) người bắt được gia súc bị thất lạc, sau khi hết thời hạn sáu tháng kể từ ngày thông báo công khai mà không có người đến nhận thì sẽ được xác lập quyền sở hữu đối với gia súc bị thất lạc đó Nếu gia súc bắt được là gia súc thả rông theo tập quán, thì thời hạn này là một năm (Điều 250); còn đối với gia cầm thất lạc, thời hạn này là một tháng kể từ ngày thông báo công khai. (Điều 251)
Nếu có người đến nhận gia súc trong thời hạn luật định và, trong thời gian chờ đợi, gia súc sinh con, thì người bắt được gia súc được hưởng một nửa số gia súc sinh ra (Điều 250). Trong cùng một giả thuyết, người bắt được gia cầm được hưởng trọn hoa lợi do gia cầm sinh ra (Điều 251). Cần lưu ý rằng hoa lợi nói ở đây là hoa lợi phát sinh trong suốt thời gian người bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc chiếm hữu tài sản cho đến ngày cuối của thời hạn được luật ấn định để chủ sở hữu thực hiện quyền nhận lại tài sản, không phải từ ngày thông báo công khai cho đến hết thời hạn luật định. Ngoài ra, cần lưu ý rằng hoa lợi của gia súc sinh sản nhiều kỳ sẽ được phân chia theo lứa chứ không theo số đầu gia súc thực tế.
Qua nội dung đã phân tích ở trên, ta có thể rút ra một số nhận người xét sau:
Thứ nhất, trong khoảng thời gian giữa thời điểm nhặt, phát hiện vật bị đánh rơi, bị bỏ quên hoặc thời điểm bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc và thời điểm giao trả lại cho chủ sở hữu hoặc giao nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được có quyền chiếm hữu tài sản đó. Để có quyền chiếm hữu tài sản, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được phải thông báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tự mình thông báo công khai. Quyền chiếm hữu được xác lập kể từ ngày nhặt, phát hiện, bắt được chứ không phải từ ngày thông báo. Nếu không thông báo, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được sẽ ở trong tình trạng chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình đối với tài sản. Dù có thông báo hay không, người nhặt, phát hiện hoặc bắt được không thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với vật bằng cách chỉ dựa vào tình trạng chiếm hữu liên tục và công khai.
Thứ hai, luật không định thời hạn thông báo công khai kể từ ngày vật được nhặt, phát hiện, bắt được hoặc được giao nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Luật cũng không xác định hình thức thông báo công khai (công bố trên báo đài, đài trung ương, đài địa phương,...) vấn đề này được giải quyết tùy theo tập quán sinh hoạt của từng vùng cũng như mức độ hiện đại của các phương tiện thông tin mà dân cư trong vùng đang sử dụng hoặc hưởng thụ.
Thứ ba, luật không xác định từ thời điểm nào quyền sở hữu được xác lập cho người nhặt, phát hiện vật bị đánh rơi, bỏ quên hoặc bắt được gia cầm, gia súc thất lạc. Ta có thể suy luận hai cách thức xác định thời điểm xác lập quyền sở hữu trong trường hợp này như sau: quyền sở hữu được xác lập từ thời điểm hết hạn để người đánh rơi, bỏ quên, làm thất lạc nhận lại tài sản; hoặc quyền sở hữu được xác lập từ thời điểm nhặt, phát hiện vật, bắït được gia cầm, gia súc đó. Rõ ràng, việc xác lập quyền sở hữu theo cách thứ nhất tỏ ra hợp lý hơn về lý luận cũng như thực tiễn và cũng phù hợp với tinh thần của giải pháp cho vấn đề xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu ghi nhận tại khoản 1 Điều 255 BLDS.
Việc chuyển nhượng vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc - được giải quyết như sau:
- Giả thuyết thứ nhất: người nhặt được vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bắt được gia súc, gia cầm bị thất lạc đã có thông báo công khai và việc chuyển nhượng được thực hiện trong thời gian chờ đợi - Người được chuyển nhượng không thể được coi như ngay tình khi tham gia vào việc chuyển nhượng, bởi đã có thông báo công khai: việc thông báo có tác dụng đặt tất cả mọi người vào tình trạng buộc phải biết việc chiếm hữu gia, súc, gia cầm bị thất lạc. Nhưng, một cách hợp lý, người này phải được hưởng thời gian chiếm hữu liên tục của người chuyển nhượng và chỉ cần chờ đến khi hết thời hạn luật định, kể từ ngày thông báo công khai, để xác lập quyền sở hữu của mình đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc và được chuyển nhượng. Giả sử, trong thời gian chờ đợi, chủ sở hữu gia súc, gia cầm bị thất lạc đến nhận lại tài sản, thì người được chuyển nhượng cũng có quyền yêu cầu hoàn trả chi phí nuôi giữ và các chi phí khác, cũng như được quyền sở hữu đối với hoa lợi như thể tài sản còn nằm trong tay người chuyển nhượng. Ta nói rằng việc chuyển nhượng có tác dụng chuyển các quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản chuyển nhượng cho người được chuyển nhượng. Nếu tài sản được chuyển nhượng trong điều kiện đã có thông báo công khai, thì người chuyển nhượng và người được chuyển nhượng hưởng hoa lợi phát sinh trong thời gian chiếm hữu của mình, theo các quy định tại các Điều 250 và 251 BLDS.
- Giả thuyết thứ hai: người bắt được gia súc, gia cầm không thông báo công khai - Không thông báo, người chuyển nhượng ở trong tình trạng chiếm hữu không ngay tình. người được chuyển nhượng có thể biết mà cũng có thể không biết điều đó. Nếu người được chuyển nhượng biết mà vẫn chấp nhận mua, trao đổi,... thì người này tiếp tục chiếm hữu không ngay tình và không bao giờ có thể xác lập được quyền sở hữu đối với tài sản.
Nếu người được chuyển nhượng không biết và không thể biết việc chiếm hữu không ngay tình của người chuyển nhượng, thì sau khi chuyển nhượng, người được chuyển nhượng sẽ trở thành người chiếm hữu ngay tình. Trong trường hợp này, quyền sở hữu đối với tài sản có thể được xác lập theo thời hiệu, được quy định tại khoản 1 Điều 255 BLDS. Nếu tài sản được chuyển nhượng trong điều kiện người chuyển nhượng không thông báo công khai, thì, khi chủ sở hữu của gia súc, gia cầm bị thất lạc xuất hiện, việc giải quyết số phận của hoa lợi được xác định tuỳ theo người được chuyển nhượng ngay tình hoặc không ngay tình: nếu ngay tình, người này không phải hoàn trả hoa lợi đã thu được cho đến ngày chấm dứt sự ngay tình; trong trường hợp không ngay tình, người này phải hoàn trả toàn bộ hoa lợi sinh ra từ khi bắt đầu chiếm hữu.
c) Vật bị chôn giấu
Theo BLDS Điều 248, “Vật bị chôn giấu, bị chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu, thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với vật đó được xác định như sau:
1. Vật được tìm thấy là cổ vật, là di tích lịch sử, văn hóa, thì thuộc Nhà nước, người tìm thấy vật đó được hưởng một khoản tiền thưởng theo quy định của pháp luật.
2. Vật được tìm thấy không phải là cổ vật, di tích lịch sử, văn hóa, mà có giá trị lớn, thì người tìm thấy được hưởng 50% giá trị của vật, phần còn lại thuộc Nhà nước và nếu vật có giá trị nhỏ, thì thuộc sở hữu của người tìm thấy vật đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”