Theo BLDS Ðiều 25 khoản 1, thì người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma tuý hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và bị Toà án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan[21]. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể đã thành niên hoặc chưa thành niên. Người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhất thiết phải có đủ điều kiện như một người giám hộ, dù luật không quy định rõ. Người này được chỉ định theo một quyết định của Toà án (Ðiều 25 khoản 2). Việc đại diện không phải được đăng ký tại UBND như việc giám hộ.

 

Cơ chế đại diện. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không hoàn toàn mất năng lực hành vi dân sự. Cũng như người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, các giao dịch khác đều chỉ có thể được xác lập và thực hiện với sự đồng ý của người đại diện (Ðiều 25 khoản 2)[22]. Dẫu sao, có thể tin rằng khác với người chưa thành niên, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể lập di chúc mà không cần có sự đồng ý của người đại diện: chỉ cần người bị hạn chế năng lực hành vi sáng suốt, minh mẫn, tự nguyện trong lúc lập di chúc, thì di chúc, một khi thoả mãn các điều kiện theo luật chung, sẽ có giá trị. Người bị hạn chế năng lực hành vi cũng có thể kết hôn mà không cần sự đồng ý của người đại diện.

 

Phạm vi đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do Toà án quyết định (cùng điều luật). Kết hợp các quy định liên quan, ta kết luận rằng các giao dịch mà người bị hạn chế năng lực hành vi được phép xác lập, tự mình hoặc có sự đồng ý của người đại diện, bao gồm: các giao dịch nhỏ, các giao dịch mà đương sự không thể giao cho người khác thực hiện, dù không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, và các giao dịch mà người đại diện được phép thực hiện dưới danh nghĩa của đương sự trong phạm vi đại diện do Toà án xác định.

 

Không như người giám hộ, người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không chịu sự giám sát của UBND địa phương nơi cư trú trong quá trình thực hiện việc đại diện. Người được đại diện, về phần mình, có nơi cư trú của mình chứ không được coi như có nơi cư trú tại nơi cư trú của người đại diện, như người giám hộ. Tất cả những điều này có thể được lý giải bởi việc người bị hạn chế năng lực hành vi không mất khả năng nhận thức và không bị mất quyền năng tự mình xác lập giao dịch như người mất năng lực hành vi.

 

Quyền và nghĩa vụ của người đại diện. Luật không có quy định riêng về quyền và nghĩa vụ của người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Có lẽ người này có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người giám hộ trong phạm vi đại diện do Toà án quyết định (Ðiều 25 khoản 2), được vận dụng trong điều kiện giao dịch nhân danh người bị hạn chế năng lực hành vi vẫn do người sau này xác lập. Song, người này không có trách nhiệm xác định tình trạng tài sản của người được đại diện. Một cách hợp lý, người đại diện cũng có thể được thay đổi, nhưng luật không có quy định về những trường hợp được phép thay đổi người đại diện và, do đó, không dự liệu các thủ tục về chuyển giao quyền đại diện. Việc đại diện chấm dứt trong trường hợp người được đại diện chết hoặc được khôi phục năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

click liên hệ luật sư.

lienhe