Tư vấn luật dân sự \| luật sư dân sự
- Chi tiết
- Chuyên mục: Luật dân sự
- Được đăng: 09 Tháng 4 2012
- Lượt xem: 268
Các bên kết hôn phải lập tờ khai đăng ký kết hôn theo mẫu do Bộ Tư pháp thống nhất quản lý việc phát hành. Tờ khai phải có xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi công tác (đối với cán bộ, công chức, người lao động, lực lượng vũ trang nhân dân) hoặc của UBND xã nơi cư trú (đối với nhân dân) của mỗi bên (Nghị định đã dẫn Ðiều 23). Việc xác nhận tình trạng hôn nhân này có giá trị không quá ba mươi ngày (cùng điều luật). Trong trường hợp một trong hai bên hoặc cả hai bên đã có vợ hoặc chồng nhưng đã ly hôn hay người kia đã chết, thì phải nộp bản sao bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án về việc cho ly hôn hoặc bản sao giấy chứng tử (cùng điều luật).
Các bên kết hôn phải tự mình nộp tờ khai đăng ký kết hôn tại UBND xã nơi cư trú của một trong hai bên, trừ trường hợp vắng mặt có lý do chính đáng, có xác nhận của UBND xã nơi cư trú của người vắng mặt (Nghị định đã dẫn Ðiều 22 và 23).
Sau khi nhận đủ hồ sơ, UBND phải tiến hành xác minh và niêm yết công khai việc xin đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND trong vòng bảy ngày (Nghị định đã dẫn Ðiều 24). Việc xác minh nhằm bảo đảm rằng việc kết hôn không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Nếu cần xác minh thêm, thì thời hạn kéo dài không quá 7 ngày (cùng điều luật). Việc đăng ký kết hôn chỉ được tiến hành, nếu quá thời hạn trên mà không có ai phản đối việc kết hôn của các đương sự.