Người khai việc sinh, trên nguyên tắc, là cha, mẹ hoặc người thân thích của người được khai sinh (BLDS Ðiều 55 khoản 2). Trường hợp trẻ bị bỏ rơi, thì người khai sinh là cá nhân, tổ chức nhận hoặc được chỉ định tiếp nhận nuôi dưỡng trẻ đó (BLDS Ðiều 56 khoản 2).

Việc khai sinh phải được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày sinh của trẻ; đối với các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, thì thời hạn này là 60 ngày. Trong trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, thì việc khai sinh phải được cá nhân, tổ chức nhận nuôi dưỡng thực hiện sau 30 ngày, kể từ ngày phát hiện mà không tìm được cha, mẹ (Nghị định đã dẫn Điều 21).

Trong trường hợp khai sinh trễ hạn hoặc khai lại việc sinh, thì, mặc dù luật không quy định rõ, có thể tin rằng người phải khai vẫn là cha, mẹ, người thân thích, người đại diện theo pháp luật của người được khai sinh hoặc chính người được khai sinh, nếu người này có đủ năng lực hành vi.

 

Nơi khai sinh là nơi thường trú của người mẹ hoặc nơi sinh của trẻ (Nghị định đã dẫn Ðiều 17 khoản 1). Nếu người mẹ không có nơi thường trú, thì nơi này được thay bằng nơi người mẹ đăng ký tạm trú có thời hạn (Ðiều 17 khoản 2). Trường hợp cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam sinh sống tại Việt Nam còn người kia là người nước ngoài, thì nơi khai sinh cho con là nơi thường trú của cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam (Ðiều 68 khoản 2).

click liên hệ luật sư.

lienhe