Tư vấn luật dân sự \| luật sư dân sự
- Chi tiết
- Chuyên mục: Luật dân sự
- Được đăng: 09 Tháng 4 2012
- Lượt xem: 263
Thay đổi họ. Theo khoản 1 Ðiều 29 BLDS, việc thay đổi họ được cho phép trong những trường hợp sau đây: 1 - Theo yêu cầu của đương sự, mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của mình; 2 - Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ tên mà cha, mẹ đẻ đã đặt; 3 - Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con; 4 - Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại; 5 - Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc từ nhỏ mà tìm ra nguồn gốc truyền thống của mình; 5 - Các trường hợp khác do pháp luật quy định. Luật nói thêm rằng việc thay đổi họ, tên cho người có đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó. Ta có nhận xét:
- Việc thay đổi họ, trong luật Việt Nam, chỉ được thực hiện trên cơ sở có yêu cầu của những người có liên quan chứ không bao giờ là hệ quả đương nhiên của một giao dịch hoặc một sự kiện pháp lý (ví dụ, nhận con nuôi).
- Trường hợp thứ nhất ghi trên, theo tập quán, chỉ được áp dụng đối với việc thay đổi tên: “họ” trước hết là một giá trị tinh thần, giá trị đạo đức; thay đổi họ với lý do rằng mang một họ nào đó, thì sẽ bị mất danh dự... là một thái độ phủ nhận nguồn gốc và bị coi như phi đạo đức.
- Việc thay đổi họ của người dưới 18 tuổi được thực hiện theo đơn yêu cầu của cha, mẹ (Nghị định số 83-CP ngày 10/10/1998 Điều 53 khoản 2). Đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó (cùng điều luật).
Thay đổi tên. Việc thay đổi tên được cho phép trong những trường hợp tương tự như đối với việc thay đổi họ. Việc thay đổi tên thường được yêu cầu trong trường hợp thứ nhất của khoản 1 Ðiều 29 BLDS; trong các trường hợp còn lại, các yêu cầu thường chỉ dừng lại ở việc thay đổi họ.