Tư vấn luật dân sự \| luật sư dân sự
- Chi tiết
- Chuyên mục: Luật dân sự
- Được đăng: 09 Tháng 4 2012
- Lượt xem: 313
Khác với họ (được đặt theo họ cha, họ mẹ hoặc theo quyết định của cơ quan hộ tịch, trong trường hợp khai sinh cho trẻ bị bỏ rơi và không có người nhận nuôi), tên của cá nhân do người khai sinh cho cá nhân lựa chọn theo ý mình. Tục lệ có can thiệp vào việc đặt tên, còn luật viết chưa có quy định cụ thể ở điểm này. Thông thường, cá nhân được đặt tên lựa chọn giữa các tên thông dụng (Hùng, Dũng, Minh, Hồng, Tuyết,...). Những tên lạ cũng có thể được chấp nhận. Có những tên rất buồn cười cũng được ghi nhận; nhưng, dù luật không chính thức cấm, có vẻ như không thể đặt tên cho cá nhân bằng những từ dùng để chưởi rủa hoặc bằng những từ thuộc nhóm ngôn ngữ hạ cấp.
Trên nguyên tắc, tên được đặt, trong khung cảnh của thực tiễn và tập quán hộ tịch, phải là tên bằng tiếng Việt, đối với người được khai sinh mang quốc tịch Việt Nam và thuộc dân tộc kinh. Người thuộc dân tộc thiểu số hoặc người nước ngoài có thể mang tên phù hợp với ngôn ngữ của dân tộc mình, của nước mình; nhưng nếu chữ viết của ngôn ngữ đó không phải là chữ Latinh, thì tên đó phải được phiên âm bằng chữ Latinh. Dẫu sao, không thể coi là trái pháp luật hoặc trái đạo đức một nguyện vọng đặt tên bằng tiếng nước ngoài cho người có quốc tịch Việt Nam, nhất là trong điều kiện người được khai sinh có mang dòng máu của dân tộc sử dụng ngôn ngữ có tên đó. Cá biệt, có trường hợp tên đọc được theo tiếng Việt, nhưng lại không tuân theo các quy luật cấu tạo từ ngữ tiếng Việt, không được ghi nhận trong từ điển tiếng Việt, cũng không phải là tên có nguồn gốc từ ngôn ngữ của dân tộc ít người hoặc từ tiếng nước ngoài[6]; những tên như vậy cũng có thể được chấp nhận.